sử dụng dịch trùn quế promin trong ương ấu trùng tôm càng xanh tại quận 6 tphcm - An phú

Thảo luận trong 'Chợ Linh Tinh' bắt đầu bởi kimyen, 22/2/17.

  1. kimyen

    kimyen New Member

    An Phú là một trong các công ty chuyên cung cấp phân trùn quế,dịch trùn quế,trùn quế đông lạnh….chất lượng và giá cả Nên chăng nhất trên thị phần.Những sản phẩm của An Phú được cung cấp mang khoa học tiên tiến đương đại và được khách hàng Tìm hiểu cao lúc sử dụng.Chúng tôi sẽ ko làm quý khách thất vẳng khi đã đặt niềm tin vào chúng tôi.Tôm là một loài vật sở hữu sức đề kháng kém nhưng sở hữu giá trị kinh tế cao, phổ quát người cho rằng nuôi tôm 10 ao chỉ Nên trúng 3 ao thôi là đã sở hữu lời để cho thấy sự kinh tế như thế nào. trong khoảng ngày xây dựng thương hiệu đến giờ Hội Nghề Cá Phú im đã không giới hạn đẩy mạnh các hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình nhằm góp phần thúc đẩy phát triển phân phối thuỷ sản tỉnh giấc Phú yên.

    [​IMG]

    trùn quế (Perionyx excavatus) hiện tại được xem là nguồn thức ăn quý giá trong ương nuôi những đối tượng thủy sản như tôm rồng, ba ba, tôm sú, tôm càng xanh,… với giá trị dinh dưỡng cao cùng các acid amin cần phải có. những sản phẩm từ trùn quế đã được nghiên cứu và ứng dụng tối ưu trong thủy sản như: Bột giun đất, phân trùn, dịch trùn quế Promin, BIO-T,… Trong chậm triển khai, bột giun đất quế đã được nghiên cứu làm thức ăn bổ sung trong ương ấu trùng tôm sú, cho kết quả chất lượng Postlorvae – 15 tốt hơn thức ăn nhập ngoại Frippak (Phan Thị Bích xoa và ctv., 2009). bên cạnh đó, Nguyễn Văn Minh và ctv., (2010) lúc phân lập vi sinh vật kiểm soát mầm bệnh trong trùn quế (Perionyx excavatus) nhận thấy: trong 13 chủng Bacillus sp. thì thấy 3 chủng Bacillus sp. đối kháng có vi khuẩn gây bệnh và kháng mạnh mang nhóm Vibrio. mặc dù được ứng dụng đa dạng trong thủy sản nhưng dùng dịch trùn quế trong cung ứng giống tôm càng xanh vẫn còn hạn chế, bởi vậy “Thử nghiệm sử dụng dịch giun đất quế Promin trong ương ấu trùng tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii)” được thực hiện tại trại thực nghiệm Khoa sinh vật học ứng dụng – Trường Đại học Tây Đô, nhằm góp phần nâng cao tỉ lệ sống ấu trùng tôm càng xanh, áp dụng vào thực tế cung ứng, góp phần tăng trưởng vững bền nghề nuôi tôm càng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.



    Nội dung nghiên cứu



    – ảnh hưởng của liều lượng, chu kỳ cho ấu trùng dùng thức ăn mang bổ sung dịch chiết xuất trùn quế Promin tới các yếu tố môi trường: nhiệt độ, pH, TAN, N-NO2-, N-NO3- , khi ương tôm càng xanh theo qui trình nước trong kín.



    – Phân tích biến động mật độ vi khuẩn Vibrio sp. trong giai đoạn ương tôm càng xanh, khi tôm được cho ăn bằng thức ăn mang bổ sung dịch chiết xuất trùn quế Promin.



    – tác động của dịch giun đất quế đến tỉ lệ sống PL15 tôm càng xanh khi chấm dứt thể nghiệm.



    phương pháp nghiên cứu



    thử nghiệm được sắp đặt theo qui trình nước trong kín (Closed-clear water systems) được nghiên cứu và vận dụng bởi Sanfider và Smith trong khoảng năm 1975 (Valenti và Daniel, 2000). Hệ thống thí nghiệm gồm 30 bể nhựa, sở hữu thể tích nước ương là 50 lít/bể. Nước ương có độ mặn 12%o được pha từ nước ót (80‰) và nước máy thành phố. Ấu trùng được sắp xếp có mật độ 60 con/L. thể nghiệm gồm 3 nghiệm thức được sắp xếp hoàn toàn bất chợt, 3 lần lặp lại với 2 nhân tố là 4 liều lượng bổ sung dịch trùn quế vào thức ăn chế biến (0, một, hai, 3 ml/kg) và 3 chu kì cho ấu trùng ăn thức ăn chứa dịch trùn quế (Promin) khác nhau (hằng ngày, bí quyết 1 ngày, phương pháp hai ngày) xen kẽ sở hữu thức ăn chế biến bình thường, ko bổ sung dịch trùn (Bảng 1).



    trong khoảng 100% trùn quế, dịch trùn quế Promin mang chứa vitamin B1 (50 mg); Vitamin B6 (40 mg); Vitamin B12 (60 mg); Alanin (150 mg); Glycine (140 mg); Leucine (180 mg); Serine (130mg); Aspartic acid (280 mg); Glutamic acid (260 mg); Lysine (120 mg); Bacillus spp. (6,7 x10^4 CFU/ml); Lactobacillus (4,0 x 10^3 CFU/ml).



    từ thời kỳ I đến IV, ấu trùng tôm được cho ăn Artemia 2 lần/ngày sở hữu mật độ 3 – 4 ấu trùng/mL. lúc ấu trùng chuyển sang công đoạn V, thức ăn chế biến được cho ăn 4 lần/ngày (7 giờ, 10 giờ, 13 giờ và 16 giờ) và hài hòa Artemia vào lúc 18 giờ sở hữu mât độ 1 – 2 ấu trùng/mL. Lượng thức ăn chế biến được cho ăn thỏa mãn nhu cầu bắt mồi của ấu trùng. Công thức thức ăn chế biến căn bản dựa trên công thức của Nguyễn Thanh Phương và ctv., (2003). Dịch giun đất quế được bổ sung vào thức ăn mang những liều lượng khác nhau khi thức ăn được cà nhuyễn theo những kích cỡ mắt lưới trong khoảng 300 – 700 µm, tương ứng từng giai đoạn vững mạnh của ấu trùng tôm càng xanh.



    chỉ mất khoảng thể nghiệm, tiêu chí nhiệt độ và pH được ghi nhận 2 lần/ngày (8 giờ và 14 giờ), những tiêu chí TAN, N-NO2-, N-NO3-, Vi khuẩn Vibrio sp. được thu dòng trước lúc xếp đặt thử nghiệm và sau chậm tiến độ định kì 3 ngày/lần với các cách thức phân tách tuần tự là Indophenol blue, Diazonium, Salicilate và đếm số khuẩn lạc cấy trên TCBS agas. Tỉ lệ sống PL15 được chọn lựa vào cuối thí điểm.



    Kết quả nghiên cứu



    Nhiệt độ và pH: Trong suốt thời gian thử nghiệm, nhiệt độ động dao trong khoảng (28,5 ± 0,48 oC – 31,3 ± 0,47oC) và pH trong khoảng (7,87 ± 0,07 – 8,19 ± 0,06). Đây là khoảng biến động thích hợp cho sự tăng trưởng của ấu trùng tôm càng xanh (Boyd và Zimmermann, 2000).



    Tổng đạm Ammonia (TAN: Total Ammonia Nitrogen): Hàm lượng TAN tương đối thấp trong 7 ngày đầu, sau chậm tiến độ mang xu hướng nâng cao ở rất nhiều các nghiệm thức và đạt cao nhất ở ngày ương thứ 10. ngoài ra, từ ngày ương thứ 13, hàm lượng TAN giảm và duy trì cho tới cuối chu kì ương. Hàm lượng TAN giảm hiệu quả ở nghiệm thức 3N (ấu trùng được cho ăn thức ăn mang bổ sung dịch trùn liều lượng (3ml/kg) mỗi ngày) và ở nghiệm thức 3.1N (ấu trùng được cho ăn thức ăn có bổ sung dịch giun đất bí quyết nhau 1 ngày). Cụ thể, hàm lượng TAN nhàng nhàng trong suốt chu kì ương ở nghiệm thức 3.1N (0,28mg/L) và 3N (0,32mg/L) đạt thấp nhất và giảm trong khoảng 1,0 – một,2 lần so với nghiệm thức đối chứng. Dần về cuối chu kỳ ương, nghiệm thức 3N mang hàm lượng TAN càng thấp (0,15 mg/L) và giảm hơn 7 lần so với hàm lượng TAN ở ngày ương thứ 10 (1,08 mg/L) và thấp hơn hai lần so mang nghiệm thức đối chứng (0,34 mg/L). Theo Nguyễn Văn Minh và ctv. (2010) thì vi khuẩn Bacillus sp. trong giun đất quế với khả năng tham dự vào chuyển hóa vật chất hữu cơ và bùn hữu cơ trong ao nuôi, có tác dụng cải thiện môi trường. Đây với thể là cỗi nguồn làm hàm lượng TAN giảm thấp vào cuối chu kì ương ở các nghiệm thức có bổ sung dịch trùn quế.



    Hàm lượng Nitrite (N-NO2-): xu thế biến động N-NO2- ở những nghiệm thức tương đối giống nhau trong suốt thời kì tiến hành thí nghiệm và nghiêng ngả từ 0,02 – 0,29 mg/L. Hàm lượng N-NO2- nhàng nhàng ở nghiệm thức cho ăn thức ăn có bổ sung dịch trùn quế mỗi ngày sở hữu liều lượng 3ml/kg thức ăn (3N) ít với sự biến động và làng nhàng đạt thấp nhất (0,06 ± 0,02mg/L), so mang nghiệm thức đối chứng (0,09 ± 0,06mg/L) thì hàm lượng này thấp hơn 1,5 lần. Theo Nguyễn Thanh Phương, (2003), hàm lượng N-NO2- ở mức hai mg/L vẫn ko ảnh hưởng đến ấu trùng. như vậy, việc sử dụng thức ăn mang bổ sung dịch trùn quế (3ml/kg thức ăn mỗi ngày) có công dụng góp phần làm giảm sự biến động hàm lượng TAN và N -NO2- trong môi trường nước ương tôm càng xanh.



    Hàm lượng Nitrate (N-NO3-): Ngược có sự biến động của TAN và N-NO2-, hàm lượng N-NO3- ở các nghiệm thức với xu thế nâng cao nhẹ vào cuối chu kì ương và sự biến động này không theo một quy luật nhất định. Hàm lượng N-NO3- của những nghiệm thức sử dụng thức ăn với bổ sung dịch giun đất quế nao núng trong khoảng 0,09 – 0,29mg/L và biến động mạnh ở nghiệm thức bổ sung dịch giun đất quế mỗi ngày. Hàm lượng N-NO3- nhàng nhàng ở những nghiệm thức tương đương nhau và biến động tăng nhẹ vào cuối chu kỳ ương. Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv., (2003) hàm lượng N-NO3- Cần duy trì dưới 20 mg/L. như vậy, mặc dù trong chu kỳ ương hàm lượng N-NO3- có phổ thông biến động nâng cao nhưng ở khoảng thấp và không ảnh hưởng đến sự lớn mạnh của ấu trùng.



    Vi khuẩn Vibrio: khi sử dụng thức ăn mang bổ sung dịch trùn quế sở hữu các liều lượng khác nhau mỗi ngày thì nghiệm thức 3N có mật số vi khuẩn Vibrio sp. thấp nhất (25 CFU/mL) vào cuối chu kì ương, thấp hơn 6 lần so mang nghiệm thức đối chứng (155 CFU/ml). Kết quả này thích hợp có Phân tích của Nguyễn Văn Minh và ctv. (2010), vi khuẩn Bacillus sp. phân lập được trong khoảng giun đất quế có khả năng ức chế mạnh đối mang sự tăng trưởng của 3 chủng Vibrio gây bệnh (Vibrio parahaemolyticus, Vibrio alginolyticus, Vibrio harveyi). quá trình đầu chu kì ương, mật số vi khuẩn Vibrio sp. nâng cao cao và giảm xuống đột ngột vào ngày ương thứ 13 ở số đông những nghiệm thức. duyên do có thể do việc xử lí Zoothanium bằng Formaline vào ngày ương thứ 12 đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của vi khuẩn Vibrio sp. Liều lượng và nhịp cho ăn thức ăn có bổ sung dịch trùn quế khác nhau với ảnh hưởng đến sự vững mạnh của vi khuẩn Vibrio sp., và xu hướng biến động của vi khuẩn ở các nghiệm thức sở hữu bổ sung dịch trùn vào thức ăn luôn thấp hơn so sở hữu sự tăng trưởng Vibrio sp. ở nghiệm thức đối chứng. như vậy, dịch trùn quế được bổ sung mỗi ngày vào thức ăn ấu trùng có liều lượng 3ml/kg thức ăn mang công dụng làm giảm thiểu sự lớn mạnh của vi khuẩn Vibrio sp. trong bể ương tôm càng xanh vô cùng hiệu quả nhất.

    Công ty Trùn Quế An Phú

    Địa chỉ : 5/8 Đường số 15, Phường Bình An Quận 2 - Tp. Hồ Chí Minh

    Điện thoại : (08) 6296.8899 - 6281.0287

    Hotline : 0983.346.179

    Fax : (08) 6281.0261

    Email : lienhe@trunque.net
     
    #1

Chia sẻ trang này