Tại Hội nghị tổng kết thực hành Luật Giáo dục đại học (GDĐH) năm 2012 vừa được đơn vị mới đây tại Hà Nội, PGS.TS Vũ Thị Lan Anh - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật Hà Nội - đề xuất 4 chính sách cần sửa đổi, bổ sung trong Luật Luật Giáo dục đại học. Về căn bản 4 chính sách này đã bao trùm những vấn đề vướng mắc nhất trong hoạt động GDĐH hiện nay. Chính sách mở mang khuôn khổ tự chủ đại học Theo PGS.TS Vũ Thị Lan Anh, đây là chính sách quan trọng, liên quan đến phần lớn các điều trong Luật GDĐH. Mục đích của chính sách này nhằm hoàn thiện hơn nữa cơ chế thực hiện quyền tự chủ đại học đã được ghi nhận tại Điều 32 và các điều có thúc đẩy của Luật GDĐH; luật hóa và tạo cơ sở pháp lý cao, đồng bộ cho các nội dung của Nghị định số 16/2015/NĐ-CP về cơ chế tự chủ của tổ chức sự nghiệp công lập vào lĩnh vực GDĐH; khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, tháo dỡ gỡ những khó khăn, vướng mắc để các cơ sở GDĐH, đặc biệt là các cơ sở GDĐH công lập được đích thực giao quyền tự chủ trong luật hoạt động GDĐH ăn nhập với quy định pháp luật để nâng cao chất lượng huấn luyện, nghiên cứu khoa học và hiệu quả quản lý nhà nước trong điều kiện hội nhập quốc tế. PGS.TS Vũ Thị Lan Anh - cho rằng, dự định sửa đổi, bổ sung các quy định tác động đến tự chủ đại học theo hướng tạo điều kiện cho các cơ sở GDĐH được tự chủ ở mức cao hơn ưng chuẩn các nội dung: Thứ nhất, quy định cụ thể hơn về quyền tự chủ của cơ sở GDĐH và nghĩa vụ đi đôi với quyền tự chủ, theo đó, quyền tự chủ của cơ sở GDĐH gắn liền với bổn phận và nghĩa vụ giải trình trên nguyên tắc công khai, sáng tỏ, có sự giám sát của nhà nước và xã hộ. Kiểm định chất lượng đào tạo là một trong những điều kiện tiên quyết để trao quyền tự chủ hoàn toàn của cơ sở GDĐH. Thứ hai, quy định hợp lý hơn và ăn nhập với thông lệ quốc tế về nâng tầng, phân tầng xếp hạng cơ sở GDĐH. Về phân tầng, chúng tôi cho rằng việc xác định cứng định hướng của mỗi cơ sở GDĐH chưa thực sự thích hợp ở Việt Nam giai đoạn hiện giờ, có thể cản trở tính linh hoạt của các cơ sở này khi muốn đồng thời phát triển các chương trình nghiên cứu và vận dụng, tìm kiếm nguồn tài chính phát triển giáo dục, song song đáp ứng nhu cầu xã hội. Thứ ba, tăng cường tính tự chủ của các cơ sở GDĐH trong lĩnh vực tài chính, tài sản theo hướng sau: Đổi mới cơ chế đầu tư cho GDĐH từ nguồn ngân sách quốc gia để tăng cường hiệu quả đầu tư bằng cách thay cơ chế cấp phát đồng đều bằng cơ chế đặt hàng của quốc gia theo sản phẩm đầu ra (đặt hàng nghiên cứu khoa học, đặt hàng đào tạo). Thứ tư, tăng cường tính tự chủ của các cơ sở GDĐH trong lĩnh vực tổ chức và nhân sự theo hướng các cơ sở GDĐH có quyền chủ động hơn trong việc quyết định bộ máy tổ chức, quyết định bổ dụng hiệu trưởng, tuyển dụng và sử dụng giảng sư. Nâng cao vai trò của Hội đồng trường để Hội đồng trường trở nên một thể chế có thực quyền quyết định các vấn đề lớn của cơ sở GDĐH và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng ủy, Hội đồng trường và Hiệu trưởng. Thứ năm, tăng quyền tự chủ cho các cơ sở GDĐH trong lĩnh vực quản lý tập huấn với ý kiến công việc đào tạo là công tác chuyên môn thuộc thẩm quyền của các cơ sở GDĐH. Các cơ sở GDĐH được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc mở ngành tập huấn các trình độ, nếu đáp ứng các điều kiện mở ngành theo quy định và ăn nhập với quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH. Tự chủ trong lĩnh vực quản lý đào tạo gắn liền với bổn phận kiểm định chất lượng tập huấn. Thứ sáu, các cơ sở GDĐH có quyền tự chủ hơn trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, đặc biệt được chủ động trong liên kết tập huấn với nước ngoài để xây dựng và triển khai các chương trình tập huấn với các cơ sở đào tạo tiên tiến trên thế giới, nâng cao chất lượng tập huấn của các chương trình huấn luyện trong nước. Xem thêm: |tư vấn chọn nghề nghiệp; ngành dược sĩ; ngành ngôn ngữ anh ra làm gì