Quyền có được tài sản của vợ chồng (còn gọi được xem là chế độ tài sản giữa vợ chồng) được xem là một phạm trù thuộc quyền sở hữu công dân được ghi nhận trong Hiến pháp (Điều 58 – Hiến pháp 1992) Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử xã hội, mỗi chế độ xã hội đều quy định một chế độ tài sản giữa vợ chồng cho thích hợp cùng với phong tục tập quán và tình cảnh kinh tế xã hội. Chẳng hạn, thời kì trước cách mệnh tháng Tám năm 1945 trong Bộ dân luật Bắc Kỳ (1931) và Bộ dân luật Trung Kỳ (1936) đã quy định cho vợ chồng được tự do lập hôn ước, chế độ tài sản pháp định chỉ đặt ra khi vợ chồng không lập hôn ước. Theo chế độ này, tài sản chung của vợ chồng gồm tất cả của cải, hoa lợi của chồng cũng như của vợ, không kể tài sản đó được tạo ra trước hay trong thời kì hôn nhân. Tập Dân luật giản yếu 1883 (một hệ thống án lệ) không thừa nhận người vợ có tài sản riêng, do đó không thể có cộng đồng tài sản giữa vợ và chồng mà toàn bộ tài sản trong gia đình đều thuộc quyền có trong tay duy nhất của người chồng… >> Xem thêm: ly hôn mà vợ không đồng ý Như vậy, trong chế độ cũ, chế độ tài sản của vợ chồng biểu hiện sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ chồng trong gia đình. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nhà nước ta đã ban hành các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình phù hợp cùng với từng giai đoạn phát triển của giang san, trong đó đặc biệt chú ý tới chế độ tài sản giữa vợ và chồng: Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 (có hiệu lực 13/1/1960) đã quy định chế độ tài sản giữa vợ và chồng tại Điều 15: “Vợ chồng đều có quyền sở hữu, tận hưởng và quan tâm ngang nhau đối cùng với tài sản có trước và sau khi cưới”. Uy tín và bảo đảm Luật hôn nhân gia đình 1959 chỉ quy định một chế độ tài sản của vợ chồng, đó là tài sản chung thống nhất. Điều đó nhằm xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, bảo vệ lợi quyền của người nữ giới trong gia đình. Khi hôn nhân được xác lập, không kể tài sản có trong tay từ nguồn gốc nào đều được coi là tài sản chung của vợ chồng và từ đó mỗi bên vợ hoặc chồng không còn tài sản thuộc có được riêng. Sau gần ba mươi năm tập luyện Luật hôn nhân và gia đình 1959, giang sơn ta bắt đầu bước vào thời kì đổi mới, các quan hệ xã hội ngày càng phong phú, đa dạng, ngoài ra là về mặt kinh tế. Để uy tín và đảm bảo thực thụ quyền tự định đoạt của công dân, Luật hôn nhân và gia đình mới đã được ban hành năm 1986 (có hiệu lực ngày 3/1/1987). Luật này quy định chế độ tài sản của vợ chồng gồm chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng. Điều đó phù hợp với đề nghị khách quan của xã hội. Chế độ tài sản giữa vợ và chồng mà Luật hôn nhân gia đình 1986 quy định đã tạo ra môi trường pháp lí uy tín và đảm bảo sự đồng đẳng về quyền và bổn phận tài sản giữa vợ và chồng; bảo đảm và uy tín sự tự do của vợ và chồng khi tham gia các giao tiếp ngoài xã hội cũng như xác định rõ nghĩa vụ, khả năng thanh toán của vợ hoặc chồng và bảo vệ quyền lợi của những người khác khi tham dự giao thiệp. Mặt khác, đó còn được xem là căn cứ pháp lí để các cấp tòa án giải quyết thấu đáo, công bằng những vụ việc tranh chấp ảnh hưởng đến tài sản của vợ chồng. Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình 1986 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung”. Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình 1986 quy định: “Đối cùng với tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời gian hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”. Như vậy, theo các điều luật trên, để xác định một tài sản nào đó là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của vợ hoặc chồng nên căn cứ vào hai dấu hiệu: thời kì hôn nhân và xuất xứ và nguồn gốc tài sản. Thời kì hôn nhân được tính từ khi hai bên giới tính được ủy ban nhân dân cấp giấy chứng nhận thành thân đến khi hôn nhân kết thúc do một bên chết hoặc do vợ chồng li hôn bằng bản án có hiệu lực luật pháp của tòa án. Xác định xuất xứ và nguồn gốc tài sản được xem là xác định tài sản đó do đâu mà có: Từ hợp đồng tặng cho, lựa chọn bán hay được thừa kế… >> Xem thêm: ly hôn mẹ muốn nuôi 2 con