Đầy Đủ Kinh Nghiệm Tham Quan Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng

Thảo luận trong 'Chợ Linh Tinh' bắt đầu bởi lethutra82, 12/4/19.

  1. lethutra82

    lethutra82 Member

    Đầy Đủ Kinh Nghiệm Tham Quan Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng
    Một nhà thơ đã viết về Ngũ Hành Sơn “Núi thấp hơn hết mà danh cao hơn hết” (dịch). Thực ra tên gọi non sông đã có từ lâu đời, đã đi vào ca dao như một tổng kết kinh nghiệm về thời tiết của dân chúng: “Chiều chiều mây phủ Sơn Trà, Sấm rền núi sông trời đà chuyển mưa”. Trong Giáp Ngọ bình Nam đồ do Đoan quốc công Nguyễn Hoàng lập năm 1594, sau khi được vua Lê cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa, vẽ các con phố đi từ Chiêm Thành nơi biên cương Chân Lạp có ghi địa danh “Non Nước Sơn”.
    Cũng như trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá Công Đạo, tự Đạo Phủ, quê Nghệ An, soạn vào năm Bính Dần (1686), vẽ tuyến đường đi từ Thăng Long tới Chiêm Thành đều có ghi “sông núi Sơn tam đỉnh” bằng chữ Nôm. Như vậy là địa danh núi núi sông đã xuất hiện trên văn bản hơn 5 thế kỷ, còn sự xây dựng thương hiệu của nó chắc phải diễn ra từ khi những lưu dân Việt đặt chân đi vùng đất này. Trong khi đó, tên danh thắng Ngũ Hành Sơn tour ngu hanh son được Lê Quang Định nói tới trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (1806) như sau: “Phía đông bến đò xã Hoàn Ký Đông có Núi Ngũ Hành Sơn, năm tòa núi chia làm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi là núi Non Nước”. Phải thừa nhận rằng tên thắng cảnh Ngũ Hành Sơn không những mang tính hoa mỹ hơn, mà người đặt ra nó đã dựa vào thế đất, thế núi và có kết hợp các yếu tố cơ bản của thuyết âm dương ngũ hành.
    Người Pháp sau này, cuối thế kỷ XIX, thì lại dựa vào chất liệu của núi đá để đặt tên cho thắng cảnh là “Les montagnes de marbre” (Những ngọn núi đá cẩm thạch).
    Những dấu tích còn lưu lại cho biết rằng trước khi người Việt đi đây, người Chăm đã thờ cúng các vị thần của họ trong các hang động, đền miếu trên các hòn núi này. Người Việt đến vác theo đạo Phật, lập thêm chùa chiền, am, thất làm tôn thêm tính chất uy nghiêm của một thắng cảnh mà không bài trừ nhau.
    [​IMG]
    Chùa Tam Thai Ngôi chùa được xây dựng từ năm 1630. Tháng 4 năm 1826 nhà vua Minh Mạng ra lệnh đúc cho chùa 9 pho tượng và 3 qủa chuông lớn, chùa Tam Thai còn lưu giữ “quả tim lửa” và chiếc chuông khắc tên vua Minh Mạng. Chùa nayy được trùng tu lại năm 1946 và năm 1975. Sân chùa rộng giữa sân là tượng Phật Di Lặc đồ sộ, chung quanh đa dạng cây kiểng loại bonsai và hoa sứ nhiều màu trắng vàng thoảng mùi hương, cuối sân là nhà phương trượng của tu sĩ và thầy trù trì, nơi đây chỉ sở hữu đá và chùa phương trượng, nhưng không có Sư phương trượng.
    Chùa Tam Thai trải qua hơn 200 năm lịch sử với chất liệu nung, mật mía và vôi đường nhưng giờ đây nó được khang trang hơn bởi gạch ngói kiên cố do con người trùng tu lại năm 1907 vì trước đó bị một trận bão lớn làm hư hại. Chùa dựa vào ba thế núi là Hạ thai, Trung thai và Thượng thai, ba ngọn núi này sắp xếp giống ba ngôi sao trong chùm sao Đại Hùng Tinh, người dân thường gọi là sao cày.
    Hiện giờ chùa còn giữ lại tấm kim bài hình quả tim lửa và một bức hoành phi có ghi lại bút tích của vua ban tặng. du lịch Ngũ Hành Sơn Trong khuôn viên chùa còn có khu hành cung, nơi một thời vua và quan triều Nguyễn đã từng ngụ du viếng cảnh, khi đến đây để lập đàn cầu quốc thái dân an. Đây là ngôi chùa được phong Quốc tự và là di tích Phật giáo lâu đời của thắng cảnh Ngũ Hành Sơn.
    Chùa Linh Ứng hướng ra biển, xây thời vua Minh mạng 1825 gọi Ứng Chân Tự đi đời vua Thành Thái 1891 đổi thành Linh Ứng Tự, có tượng lớn Đức Quan thế Âm bồ tát. Chùa Linh Ứng thờ Tam Thế Phật, chính giữa Phật Thích Ca, bên phải Di Lặc, bên trái Di Đà. Năm 1970 các Tăng ni, Phật tử Quảng Nam-Đà Nẵng xây lại chùa mới.
    Chùa Linh Ứng thờ bài vị của trưởng lão Bửu Đài. Chùa Linh Ứng tọa lạc trên ngọn Thủy sơn, đây cũng là ngôi chùa cổ xoay mặt về hướng Đông trông thấy biển và lưng chùa tựa núi như tạo cần một sự vững chắc cho ngôi chùa. Chùa được xây dựng vào những năm nửa đầu thế kỷ XVII dưới thời vua cảnh Hưng Triều Lê, một vị tiền hiền hiệu Quan Chánh đến ẩn tu và lập ra một am nhỏ gọi là “Dưỡng Chơn Am” sau này thành một gian nhà tranh gọi là “Dưỡng Chơn đường”.
    Khi vua Gia Long đến viếng Ngũ Hành Sơn và cho xây dựng lại chùa phong quốc tự là “Ngự chế ứng chơn tự” do Bảo Đài đại sư trụ trì. nơi 1825, vua Minh Mạng cho xây dựng lại chùa bằng gạch ngói khang trang hơn và đổi tên thành “Ứng Chơn Tự”, rồi nơi đời Thành Thái (1891) đổi tên thành “Linh Ứng Tự” và tên này được giữ nguyên cho tới bây giờ.
    – Chùa Tam Tôn
    – Chùa Từ Tâm
    * Tháp:Xá Lợi
     
    #1

Chia sẻ trang này